Ấn bản

Lời tựa

01 - 02

03 - 04

05 - 06

07 - 08

09 - 10

11 - 12

13 - 14

15 - 16

17 - 18

19 - 20

>>>

 

 

 

 

VII

 

            Paris. Đêm Ba Mươi Tết âm lịch.

            12 giờ khuya từ quán café làm việc trở về, đã vào giường rồi mà tôi còn nghe tiếng bấm chuông gọi cửa. Vài người bạn quen ở Paris tìm đến chúc mừng năm mới. “Đêm Ba Mươi nơi xứ người mà nằm nhà thì buồn lắm”, họ bảo. “Chúng mình đi kiếm cái gì uống đi!”

            Tôi nghĩ nhanh đến nỗi vắng vẻ trong tâm hồn và cả trong ngôi nhà đêm Ba Mươi Tết. (Mẹ tôi và đứa con trai nhỏ đã xuống Marseille thăm gia đình người anh lớn từ tuần trước). Sự quạnh hiu làm chùng tâm thức. Nên, khoác áo dạ, đội mũ laine, theo bạn bè lội tuyết đi tìm rượu uống.

            Quán xá đóng cửa gần hết. Phải đi vòng trọn khu Quar- tier Latin mới tìm thấy một cái quán của người Ả Rập còn mở cửa khuya. Chai cognac được gọi ra với một dĩa ô-liu và một khoanh phó-mát. Thêm vài miếng khô nai thơm lừng mùi xả. Thế là đã đủ cho một đêm giao thừa nơi đất khách xa xôi.

            Tất cả chúng tôi ai cũng buồn và ít gặp nhau. Thảng hoặc chỉ là điện thoại hỏi thăm sức khoẻ của nhau. Người Việt Nam ở Paris không nhiều, nhưng cũng không quá ít. Ai cũng bận bịu theo vấn đề cơm áo. Vì vậy, tình thân khó nẩy nở nếu không phải là giữa những người có cùng một điểm giống nhau trong đời sống hay trên nghề nghiệp. Điểm giống nhau giữa tôi và những người bạn này là “sự cô đơn”.

            Đêm Ba Mươi Tết trên xứ người, chúng tôi ngồi uống rượu, nhìn tuyết rơi. Phố xá vắng tanh. Dòng đèn đường soi sáng càng nhiều hơn trong tim mỗi người sự đơn lẻ. Ai nấy lặng im uống từng hớp rượu, uống cả nỗi sầu nhớ nhà vào máu. Rồi, dường như không chịu nổi, một người bạn kêu to: “Chúng mình hát đi! Hát mừng năm mới đi!”


            Và anh đứng lên xin chủ quán cho được sử dụng cái đàn dương cầm đang nằm lẻ loi trong góc. Cả bọn cùng hát. Trong tiếng hát như có pha màu nước mắt. Giòng nhạc Xuân vang lên suốt những ngày trước Tết trên các băng tầng phát thanh trong quê hương ngày cũ, bấy giờ được cất lên trong một không gian lạnh lẽo, xa vời.

            Có cái gì đó thật ấm len giữa mọi người? Một điều gì thân ái như mùi trầm nhang trước bàn thờ tổ tiên trong đêm trừ tịch? Một điều gì nồng nàn ngát thơm như mùi pháo Tết? Và cũng điều gì đó thật dịu dàng như đôi mắt mẹ hiền cứ mãi ngóng chờ những đứa con xa...

            Đêm Ba Mươi trên xứ người, chúng tôi như một đám con nít bơ vơ ngồi bên nhau nhớ về bà mẹ quê hương cũ. Tôi biết rằng mình vẫn còn những người bạn. Những người bạn đến cùng một xứ sở, nói cùng một ngôn ngữ. Những con người đã từng có những dòng kỷ niệm nơi dải đất xa vời yêu dấu ấy, như tôi.

            Bên ngoài, tuyết rơi mỗi lúc mỗi nhiều hơn...

 

 

            Tháng 2/1979. Lưu diễn Phước Tỉnh, Đồng Nai.

            Đồng Nai là tỉnh đầu tiên của Miền Đông Nam phần, bắc giáp tỉnh Lâm Đồng; nam giáp biển Nam Hải; đông giáp tỉnh Thuận Hải; tây và tây-bắc giáp tỉnh Sông Bé và thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh Đồng Nai trải dài ra trên thung lũng sông Đồng Nai và một chi lưu của nó là sông La Ngà. Đất tiếp với các cao nguyên Lâm Viên và Di Linh nên hơi cao; phần lớn là đất đỏ, luôn cả đất xám, phù sa cũ, nên việc trồng trọt ở đây rất thuận lợi.

            .. .. ..

            Trạm đến thứ nhất trong chuyến lưu diễn Miền Đông là Phước Tỉnh, một vùng ven biển thuộc huyện Long Đất, tỉnh Đồng Nai. Chúng tôi phải bỏ Sàigòn từ sáng sớm Mồng Ba. Phố xá muộn màng im ngủ. Chiếc xe rời thành phố âm thầm, giống như cõi lòng chúng tôi vẫn âm thầm tiếc nuối mấy ngày nghỉ Tết.

            Xe đến Phước Tỉnh khi vừa tang tảng sáng. Hơi sương còn đọng trên các cành dương. Anh em công nhân bắt tay ngay vào việc dựng sân khấu cho kịp hát hai xuất. Anh tổ trưởng Tân Nhạc bảo nhỏ tôi: “Anh em mình đi kiếm cái gì uống ‘giải nghễ’ đi rồi hãy về nhận chỗ ngủ. Đêm qua anh nhậu say quá.”

            Vậy là cả nhóm Tân Nhạc mỗi người một xắc tay, kéo nhau đi tìm quán cà-phê.

            Sau 75, một điều làm nổi bật sắc thái lè phè của dân Miền Nam là hình ảnh các quán cà-phê. Đâu cũng có quán cà-phê, từ thôn quê cho đến thành thị hay các vùng hẻo lánh chân trời góc biển. Quán nào cũng đông khách.

            Buổi sáng ở Phước Tỉnh, không khí thật trong lành. Cái quán chúng tôi đến đã mở cửa từ sớm. Rải rác đây đó là các bác phu xe lôi đang oang oang trò chuyện. Cả đám Tân Nhạc ngồi trên những cái đẩu thấp, chụm lại chung quanh một thân cây cưa ngang được dùng làm bàn. Trời thật lạnh. Ai nấy co ro, so vai rụt cổ. Biết bao câu chuyện được phô bày một cách đầy hứng thú. Chuyện Tết nhất. Chuyện bài bạc. Chuyện rượu chè. Luôn cả chuyện “má sắp nhỏ” cằn nhằn sao đoàn lại ra đi khi chưa hết Tết.

            Tôi cảm động nhìn từng người bạn. Ai cũng có những hoàn cảnh khó khăn, những khổ tâm riêng; nhưng tất cả mọi nỗi này đều được che giấu dưới những những nụ cười dễ dãi. Trong xã hội sau 75, tình bạn là một nhu cầu cần thiết. Và tình bạn trong xã hội Cải Lương lại còn cần thiết hơn. Vì những điều kiện chung mà vô tình sự đoàn kết chặt chẽ nẩy sinh giữa những cá nhân trong từng tổ riêng của đoàn. Tình bạn cũng phát sinh từ đó.

            Trong tổ Tân Nhạc, 7 người chúng tôi thân nhau như anh em. Những buổi cà-phê, những buổi rượu chia xẻ cho nhau cũng hứng thú như những bản đàn vẫn tấu với nhau 30 phút trước mỗi giờ hát. Không có sự phân biệt nam nữ trong tình cảm ấy. Tất cả đều có chỗ đứng độc lập và cùng được tôn trọng theo khả năng riêng.

            Trong đoàn, tôi cũng thân với Hạnh, một nữ diễn viên nổi tiếng, bạn với nhau từ khi còn ngồi ở bậc Trung học. Nhưng trên những sinh hoạt chung của đoàn, so với tình đoàn kết cho 6 anh em trong tổ Tân Nhạc thì tình thân cho cô bạn này có phần khác đi.

            Sáng sớm Mồng Ba, chúng tôi ngồi với nhau nơi chiếc quán của một vùng ven biển đìu hiu xa thành phố. Những điếu thuốc lá đen được chuyền tay nhau. Những ly cà-phê nóng đã là những lời chúc mừng đầu năm cho tình bạn chúng tôi, thân ái, nhẹ nhàng như tiếng thì thào không ngớt của biển.

            []

 

 

            Paris. Mỗi buổi trưa đón xe buýt đi làm, tôi đều nhìn thấy nơi trạm đợi có một người đàn bà Pháp độ năm mươi tuổi, thân hình gầy yếu nhưng ăn vận chải chuốt, ngồi nói lầm bầm trong miệng. Bao nhiêu chuyến xe đến rồi đi cũng không thấy bà bước lên bục gỗ. Thoạt đầu, tôi ngỡ bà còn đang đợi chuyến xe như ý muốn; sau mới biết bà là một người đãng trí, ngây ngây.

            Có bữa ngồi đối diện, trộm nhìn thì thấy khuôn mặt bà trông rất tinh anh sáng láng. Thuở thanh xuân, bà hẳn phải là một người rất đẹp. Bà không lưu ý đến ai chung quanh, một cuốn sách luôn mở ra để trên đùi, đôi mắt chú mục vào đó, miệng lầu bầu không ngớt. ột bữa khác, chỉ còn tôi với bà nơi trạm đợi. Bà chợt ngửng nhìn tôi rồi kêu lên: “A! Cô nhỏ Chinoise!”

            Tôi chữa: “Không phải. Tôi là người Việt Nam.”

            Thế là bà đâm vui vẻ hẳn, quay sang chuyện trò với tôi cách thân mật tưởng như lâu ngày quen biết. Trong đôi mắt bà, nét tinh anh lần lần hiện rõ. Một thoáng, tôi lạ lùng không tin rằng đang trò chuyện với một người đãng trí, ngây ngây.

            Bà nói thao thao về lịch sử cận đại của nước Việt Nam. Lối nói bà lôi cuốn đến độ tôi trễ mất một chuyến xe buýt cách quãng ba mươi phút lúc nào chẳng biết. Tôi hỏi bà tại sao lại lưu tâm đến lịch sử nước tôi như vậy? Bà nhẹ nhàng đáp: “Cha tôi từng là lính viễn chinh trong quân đội Pháp tại Việt Nam hồi đầu thế kỷ. Sau này trở về nước lập gia đình, ông vẫn nhớ đến Việt Nam, vẫn kể cho lũ con nghe về cái xứ nhỏ bé nhưng có rất nhiều cảnh đẹp và nhiều những con người đáng yêu, mộc mạc. Khi lớn lên, tôi lập gia đình với một thanh niên Việt Nam du học Pháp từ năm 51. Điều tôi ao ước là được một lần theo anh ấy về thăm cho biết cái xứ xa xôi mà cha tôi kể rằng ‘đã đến rồi thì không còn muốn bỏ đi!’, nhưng chồng tôi luôn luôn từ chối. Nói về Việt Nam, anh ấy còn tỏ ra khinh thường và ghê tởm nữa. Tôi không hiểu tại sao. Bây giờ tôi đã già. Vợ chồng tôi ly dị. Ước mơ tuổi trẻ cũng tàn đi theo năm tháng. Nhưng hễ mỗi lần nghĩ tới Việt Nam là tôi vẫn nhớ hoài những lời cha tôi nói ngày xưa.”

            Tôi không tỏ bày gì với bà về quê hương tôi hay về người chồng Việt Nam bà đã tâm sự. Tự trong đáy tim, tôi đâm ra có thiện cảm với bà mỗi bữa mỗi nhiều. “Tình quê hương trong lòng mỗi người sâu dày như quá khứ”, tôi nói với bà điều ấy. Và thêm, nhưng cũng từ bà mà tôi thấm cảm được càng nhiều hơn những cái gì liên hệ đến quê hương.

 

 

            Mồng 6 Tết (1979), hát Phước Hải, huyện Long Đất, tỉnh Đồng Nai.

            Qua đến Phước Hải, đoàn lưu lại một tuần. Ngày đã hết mùi Tết, phố xá đìu hiu, câm nín. Trên nét mặt của các người dân miền biển chẳng nói lên được điều gì ngoài một nỗi dửng dưng, chịu đựng. Riêng có ngọn gió heo heo thoảng qua không gian mới là điều nhắc tôi nhớ rằng đâu đây vẫn còn sự hiện diện của nàng Xuân.

            Trong cuộc đời, tôi vẫn yêu ghê gớm ngọn gió lạnh những ngày trước và sau Tết Nguyên Đán. Trong gió có vương màu Xuân xanh. Trong gió có thơm mùi kỷ niệm. Kỷ niệm những ngày thơ ấu, cứ mỗi mùa Tết đến là đêm đêm các chị em tôi lại đi nhặt hoa vông rơi nơi đầu ngõ. Những cánh hoa màu đỏ lả tả bay trong gió đã gợi lên biết bao cảm xúc thơ ngây ngay từ ngày ấy, chiếm lấy một chỗ đứng vững vàng trong ký ức; để rồi cứ mỗi mùa gió tháng Chạp là tôi lại nhớ đến màu đỏ của hoa vông.

            Tuổi thơ nào cũng đẹp, cho dù có là tuổi thơ trong một đất nước bời bời bom đạn. Thì những cánh vông lả tả bay trong gió đẹp một cách nhạt nhòa –như dòng nước mắt trên khuôn mặt mẹ tôi bên xác cha, khi tôi còn rất bé--, đã chính là tuổi thơ của tôi. Màu đỏ của hoa được nhìn như màu đỏ của dòng máu rỉ ra bên mép cha tôi trong giây phút cuối. Và ngay từ thuở ngày xưa, tôi đã gọi màu đỏ là màu biệt ly.

            Một tuần lễ ở Phước Hải, bầu trời xám xịt đầy mây. Những cụm mây phiêu du về nơi chân trời tím. Những cụm mây lang thang như bước chân tôi trên biển một mình. Ngọn gió lạnh bỗng càng thêm vồn vã; và tôi tưởng như mình đang tìm lại được chút nào tuổi thơ.

            Cho tôi lại ngày nào,

            Trăng lên đầu ngọn cau

            Me tôi ngồi khâu áo,

            Bên cây đèn dầu hao...

            Có lẽ tôi chết mất thôi trong bốn bức tường kiên cố của kỷ niệm. Chết, nhưng trên đôi môi vẫn nở nụ cười sảng khoái.

            []

 

 

            Paris. Cách ngôi nhà tôi ở chừng một trăm mét có một cặp vợ chồng Việt Nam độ sáu mươi tuổi cư ngụ trong một căn của dãy chung cư do chính phủø trợ cấp. Hai ông bà được một cậu con trai du học đã lâu, bảo lãnh sang Pháp. Người chồng dáng dấp hiền lành gầy yếu. Bà vợ cũng xấp xỉ tuổi ông nhưng khoẻ mạnh lanh lợi hơn nhiều. Mỗi lần gặp ông trên đường phố, tôi vẫn chào hỏi. Nhưng kể từ khi nghe câu chuyện “gà gáy” của ông, tôi càng thêm quý mến ông.

            Ở Paris, người dân không được quyền nuôi gia súc trong nhà như người Việt Nam vẫn làm nơi quê hương xa lắc. Ông gốc Bến Tre, lại rất mê nghe tiếng gà gáy buổi sáng. Vì vậy, ông cố tìm mua cho được một con gà trống tơ, đem về vuốt ve ngắm nhìn cả ngày không chán. Thế rồi, một buổi sáng sớm, trái tim ông bỗng như ngừng thở khi nghe tiếng cánh gà đập xoàng xoạc, rồi một giọng gáy cất lên lanh lảnh. Ông nhắm nghiền mắt, say sưa theo tiếng “ò ó o” quen thuộc kéo dài từng chặp. Và ông tưởng như đang nằm trên bộ ván ngựa trong ngôi nhà ba gian ở Bình Đại, Bến Tre. Đột nhiên, có tiếng bà vợ la lớn: “Ba nó dậy bịt mỏ con gà lại đi, coi chừng phú-lít tới.”

            Ông hoảng hồn trở về với thực tế, tung chăn phóng ngay xuống bếp, đến bên chuồng gà, giơ tay đập đập lên làn kẽm lưới. Con gà nhẩy chồm chồm trong chuồng, tiếng kêu quang quác làm náo động hẳn căn bếp. Bà vợ đứng sau lưng ông, la lên bai bải: “Bắt nó ra, bịt mỏ nó lại!”

            Ông mau chóng làm theo lời vợ, chụp lấy cổ gà bóp nhẹ. Con vật dãy dụa một lát, sau cùng nằm im chịu trận trong tay ông.

            Từ đó, cứ mỗi sáng sớm, ông lại thức giấc đến bên chuồng gà ngồi canh đợt gáy thứ nhất của nó. Qua đến đợt thứ hai là ông vội vàng chụp lấy mỏ gà nắm chặt, mặc cho đôi cánh của nó vùng vẫy lung tung.

            Gặp tôi giữa đường, ông kể cho nghe câu chuyện mỗi sáng nghe gà gáy, rồi cười: “Đã lắm cô ơi! Tui cứ có cảm tưởng như đang nằm ở quê hương mình mỗi khi nghe nó cất tiếng gáy.”

            Bẵng hai tháng sau, gặp lại ông, hỏi thăm về con gà trống tơ, tôi thấy ông lắc đầu: “Mụ quản lý chung cư nghe báo cáo là tui có nuôi gà trong nhà, gáy o o sáng sớm không cho ai ngủ, nên mụ đòi kêu phú-lít. Bà xã tui năn nỉ miết, tặng luôn mụ con gà về làm thịt, mụ mới tha cho.”

            Rồi ông cười buồn: “Tụi Tây nó văn minh quá, quen nghe tiếng động cơ máy móc, nên không thấy tiếng gà gáy buổi sáng là điều thú vị. Chứ nếu nó chịu khó nhận ra, chắc là nhà ai cũng có thể nuôi từng bầy, tha hồ nghe tiếng gáy, đã lắm cô hả?”

 

 

            Vũng Tàu, cuối tháng 2/1979.

            Vũng Tàu ở về phía nam tỉnh Đồng Nai, cách Sàigòn 125 cây số. Thời nhà Nguyễn, khu vực Cần Giờ, Vũng Tàu, Bà Rịa là hai vùng trấn biên, phòng giữ vịnh Ghềnh Rái và đường sông lên Biên Hòa, Gia Định. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp chia tỉnh Biên Hòa thành ba tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một. Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa.

            Sau hiệp định Genève, thời Việt Nam Cộng Hòa, năm 1957, hai tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa được chia thành bốn tỉnh: Biên Hòa, Phước Tuy, Phước Long, Long Khánh. Vũng Tàu thuộc tỉnh Phước Tuy. Sau khi thống nhất hai miền, tháng 1/1976, các tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa cũ hợp nhất lại thành tỉnh Đồng Nai. Vũng Tàu thuộc tỉnh Đồng Nai.

            .. .. ..

            Đoàn di chuyển ra Vũng Tàu, một thị xã du lịch xinh đẹp có nhiều bãi tắm nằm dọc theo bờ biển, trong đó có những bãi vòng quanh chân núi Lớn (cao 245m) và chân núi Nhỏ (cao 170m). Ngoài những bãi tắm, Vũng Tàu còn có Thích Ca Phật Đài, Niết Bàn Tịnh Xá đều là những thắng cảnh nổi tiếng, lôi cuốn được rất nhiều du khách. Trên đỉnh núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng) có ngọn hải đăng cao 18m với luồng ánh sáng chiếu xa 30 hải lý, đêm đêm phát ra hai vũng sáng dài kế tiếp nhau quay tròn trên bầu trời thị xã, giúp cho thuyền bè ngoài khơi được dễ dàng đi lại trên biển đêm.

            Sau 1975, dẫu rằng tất cả mọi tuồng hát đều phải viết theo một hệ thống bắt buộc và tất cả các nghệ sĩ phải khép mình vào những quy luật chung, nhưng ngành nghệ thuật sân khấu vẫn là ngành được chế độ ưu đãi nhiều nhất. Với chủ đích tuyên truyền cho chủ nghĩa mà nhà nước nhắm vào để khai thác và đòi hỏi nơi người nghệ sĩ, đổi lại, người nghệ sĩ cũng được hưởng những dễ dãi nào đó đã không được ban hành trong dân chúng nói chung.

            Phải viết rằng, giữa một xã hội đảo điên về mọi mặt, những chuyến lưu diễn chính là một cuộc nghỉ hè dài tôi may mắn được cùng tham dự. Trên những bước giang hồ ấy, tôi có dịp biết đến nhiều vùng trời quê hương thăm thẳm, tiếp xúc với đủ giới người và chứng kiến biết bao hình ảnh, sự việc; một điều không dễ gì tìm thấy trong cuộc sống định cư.

            .. .. ..

            Những ngày Vũng Tàu, tôi thường ra biển thật sớm khi bình minh chưa ló dạng. Mùa này trời hãy còn lạnh nhưng bãi biển vẫn không vắng người tắm. Lang thang trên bờ cát mịn, nhìn xa xa những chiếc thuyền nhỏ xíu giữa một vùng bao la trời, nước, tôi hình dung đến các chuyến ghe vượt hải phận mỗi ngày trên khắp các vùng duyên hải Việt Nam. Đã có bao nhiêu người thoát được cơn giận của đại dương? Bao nhiêu người vùi thây dưới biển? Có bao nhiêu người đến được an toàn bờ bến? Và bao nhiêu người chịu thua Định Mệnh? Thứ Định Mệnh khắc nghiệt, tàn bạo –giống như Shakespeare(1) đã viết trong Roméo & Juliette: “Trong cuốn sổ đoạn trường, tên chúng ta cùng ghi ở một dòng...” (Dans le livre du destin, nous sommes sur la même ligne...), mà cho dù ở lại hay ra đi, người dân Việt Nam vẫn không thoát được nó.

            []

  

            Paris. Khi biết ra vị giáo sư dạy vĩ cầm của tôi ở trường Nhạc Sàigòn hai mươi năm trước đang định cư tại Pháp, một buổi tối không đi làm, tôi tìm đến thăm ông.

            Ông ở ngoại ô Paris, trong một khu phố nghèo nàn của người Ả Rập. Con đường dẫn vào nhà ông rác rến đổ đầy, dơ bẩn. Những vũng nước ứ đọng đen ngòm, mùi ẩm mốc tỏa ra nồng nặc. Một thoáng, tôi nhớ lại căn phố lầu sang trọng của ông trên đường Hàm Nghi ngày cũ. Có chút gì buồn bã dấy lên trong tim khi nghĩ lại những năm tháng còn theo học với ông.

            Ông có vẻ vui khi gặp lại tôi, một trong ba người học trò đầu tiên sau khi ông từ Pháp trở về Việt Nam năm 1958. Sự già nua củ rủ nơi ông khiến tôi se lòng không ít. Căn phòng đơn giản với cái đàn dương cầm chiếm một vị trí rộng giữa nhà, trên nắp có để chiếc hộp vĩ cầm đóng kín. Hai chiếc ghế bọc da màu nâu đã cũ. Một cái bàn viết kê sát cửa sổ với những cuốn sách dày bày ra trên đó. Một bức tranh sơn dầu vẽ cây violon treo buồn bã trên tường.

            Ông kể cho tôi nghe về cuộc sống đơn độc hiện tại của ông. Điều này từ hai mươi mấy năm qua, khi còn là học trò ông, tôi đã biết. Cuộc tan vỡ hôn nhân giữa ông và người vợ (cũng là giáo sư của tôi, dạy môn Sử nhạc) đã là một biến cố ảnh hưởng không ít đến lớp học trò ông ngày đó... Vậy mà trong một đêm giá rét ở Paris, tôi mới thấm cảm được ngần nào sự cô đơn ông đã từng nhiều năm tháng trải qua.

            Ông hỏi tôi hiện đang làm gì. Tôi đáp, làm bồi bàn trong một quán cà-phê ở Paris. Ông cười chua chát: “Thuở xưa, trong các con, mỗi đứa đều phô bày mỗi khuynh hướng nhạc riêng biệt. Có đứa hợp với nhạc Mozart, có đứa hợp với nhạc Brahms, nhạc Mendelssohn, có đứa hợp với nhạc Vivaldi, nhạc Bach... Riêng con, khuynh hướng đau khổ có tính cách định mệnh của Beethoven vẫn tiềm tàng trong con, thầy đã nhận ra ngay từ ngày ấy. Nhưng thầy không nghĩ rằng có lúc đứa học trò mình phải dùng đôi tay để bưng cà-phê cho khách, thay vì chơi nhạc Beethoven!”

            Có một chút ngậm ngùi rơi xuống giữa hai thầy trò. Lúc ấy, tôi đang ngồi trước lò sưởi nhìn những tia lửa xanh nhẩy múa trong tiếng củi reo tí tách. Ngoài trời, tiếng gió mùa đông rít mạnh. Tôi nghe tràn ngập trong tim một tình cảm mơ hồ tiếc nuối. Và tôi nói: “Thưa thầy có nhớ bữa cơm tối thầy đã mời con sau khi con tốt nghiệp trường Nhạc?”

            Ông gật đầu. Tôi tiếp: “Kỷ niệm buổi ấy đã lưu lại trong tâm trí con suốt mười mấy năm sau qua một lời thầy đã dạy: ‘Phải luôn ngửng đầu lên trong mọi hoàn cảnh, dù đau thương đến đâu chăng nữa. Nếu không, cuộc đời sẽ đạp con như đạp một con kiến, và ngay chính con cũng không biết rằng mình đang bị chà đạp.’”

            Ông cười buồn: “Ngày xưa thầy có dạy con như thế thật qua chính kinh nghiệm khổ đau thầy đã trải. Nhưng thầy không mong cho con đi lại buớc đường của thầy.”

            Tôi gật đầu: “Thầy đã dạy con nhiều lắm, nhiều hơn sức con có thể tiếp nhận. Tuy nhiên, ngày nay cho dù đôi tay không còn thì giờ để chơi nhạc Beethoven, nhưng thật thì tâm hồn con đang dàn trải nghị lực Beethoven con đã thu nhận được qua lời dạy của thầy một đêm ăn tối xa xưa.”

 

 

            Tháng 2/1979. Hát Bến Đình.

            Bến Đình thuộc khu phố Thắng Nhì, Vũng Tàu, rộng 1.033 mẫu, nằm dọc theo bờ biển Nam Hải, cách trung tâm thị xã Vũng Tàu 3km về hướng Đông Nam. Dân cư phần lớn sống bằng nghề đánh cá. Ngư phủ không những hành nghề ngay trên chính bờ biển Vũng Tàu mà còn đi đến tận các miền xa như Cà Mau, Rạch Giá, Côn Sơn.

            Trong cái đời đi theo gánh hát, tôi vẫn ưa trên hết các chuyến viễn du miền biển, nơi khí trời khoáng đạt và tâm tình người dân địa phương cũng rộng rãi dễ chịu hơn so với vùng đồng bằng và cao nguyên. Hình ảnh một chàng Vọi với xóm chài lưới trong truyện Trống Mái của Khái Hưng(1) đọc khi vừa lớn gây mãi trong óc tôi cái ấn tượng ấy. Ý nghĩ có phần chủ quan lệch lạc, nhưng hề gì? Người ngàn xưa và người đời sau còn có thể hiểu và thương nhau ở cái tâm sự nữa là!

            .. .. ..

            Những ngày Bến Đình, chúng tôi thường rủ nhau ra bến xem ghe cá trở về mỗi chiều, mỗi sáng. Thật là một quang cảnh rộn ràng vui mắt. Những chiếc ghe lớn, nhỏ tắp vào bờ. Những chiếc lưới được tháo ra. Từng con cá nhảy lên rồi lại rớt xuống giữa đàn cá im lìm chờ chết. Tiếng người lao xao mua bán. Các khuôn mặt bóng nhẫy rạng rỡ nụ cười.

            Giữa nỗi ồn ào của bến chợ, tôi bỗng hình dung đến “Bàn Tay Của Thượng Đế” trong tác phẩm điêu khắc của Rodin(2); trên  đó, con người chỉ là những sinh vật trần truồng yếu đuối để bất cứ lúc nào năm ngón to lớn cũng sẵn sàng co lại thành một khối. Và tôi tự hỏi, số phận đau thương của người dân Việt Nam trong bàn tay định mệnh của Thượng Đế suốt mấy trăm năm qua có khác nào với những con cá đang quẫy đuôi một cách tuyệt vọng trong màn lưới kia chăng?

            []

 



(1) William Shakespeare, nhà soạn kịch lừng lẫy người Anh cuối thế kỷ 16 (1564-1616). Tác phẩm Roméo & Juliette của ông được viết vào năm 1594-1595.

(1) Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Dư, một trong những nhà văn chủ lực của nhóm Tự Lực Văn Đoàn thập niên 1930.

(2) Auguste Rodin, điêu khắc gia nổi tiếng người Pháp (1840-1917). Tác phẩm điêu khắc “Bàn tay của Thượng Đế” được tạo ra năm 1898.

 

Bài 07